DMCA.com Protection Status Xem chi tiết tại: https://lachongvien.hatenablog.com/

Nghĩa trang Lạc Hồng Viên

Siêu công viên nghĩa trang đẹp nhất Việt Nam và mang tầm vóc số 1 khu vực ✅ 0965435666

Cúng đầy năm (Cúng thôi nôi)

tham khảo thêm: lịch thăm quan lạc hồng viên

https://lachongvien.hatenablog.com/entry/nghia-trang-lac-hong-vien

f:id:lachongvien:20190822045251j:plain

Đứa trẻ đầy năm gọi là đầy tuổi, cúng đầy năm còn gọi là cúng đầy tuổi hoặc lễ thôi nôi. Ngoài việc cúng lễ trong dịp này người ta còn có tục thử đứa trẻ.Hôm ấy đứa trẻ được ăn mặc chỉnh tề. Con trai thì bày cung tên, giấy bút, con gái thì bày dao kéo, kim chỉ bên cạnh. Đứa trẻ, được đặt trước những thứ đồ đó và sẽ nhặt lấy một thứ mà nó thích.

Người ta cho rằng : nếu đứa con trai chọn kiếm cung, giấy bút thì nó sẽ theo nghiệp võ hay nghiệp văn, con gái nếu chọn kim chỉ thì sẽ có tài nội trợ. Trong buổi cứng đầy năm, nhiều nhà làm cỗ bàn rất linh đình, khấn trình trước bàn thờ gia tiên và mời khách khứa đông hơn cả cúng đầy tháng. Sau khi kết thúc nghi thức tử tài, khách mời thực hiện nghi thức chúc mừng và lì xì cho cháu bé. Nghi lễ kết thúc, cuộc tiệc mừng cháu tròn một tuổi cũng bắt đầu.

Lễ thôi nôi, ngoài lễ vật chè – xôi, vịt luộc cúng Mụ bà – Đức ông như trong lễ đầy tháng, còn có heo quay cúng đất đai diên địa, thổ công, thổ chủ. Mâm cúng được bày ngoài sân, đầu hướng ra ngoài, đi kèm với heo quay còn có 5 chén cháo, 1 tô cháo, 1 đĩa lòng lợn, rau sống, nhang, đèn, rượu, trà, hoa quả, trên lưng lợn quay gắn một con dao bén.

Trong nhà, bày 3 mâm cúng gồm mâm cúng Thành hoàng bổn cảnh; mâm cúng cửu huyền thất tổ và mâm cúng ông bà quá vãng (bao nhiêu bàn thờ, bấy nhiêu mâm cúng). Lễ vật là những thức ăn chín phù hợp với tập quán mỗi địa phương. Kế bên (trên bộ ván hoặc bộ vạt) bày 12 chén chè, xôi; con vịt luộc chín với 3 chén cháo và 1 tộ cháo cúng 12 Mụ bà và 3 Đức ông.

Thổ công

tham khảo thêm: bảng giá đất lạc hồng viên

https://lachongvien.hatenablog.com/entry/nghia-trang-lac-hong-vien

f:id:lachongvien:20190822045113j:plain

Dân ta từ xưa đã có câu “Đất có Thổ công, sông có Hà Bá” nghĩa là tại các gia cư, Thổ công chính là vị thần trông coi gia đình, định dự họa phúc cho gia đình tín chủ. Nhờ ngài mà ma quỷ không xâm nhập được để quấy nhiễu những người trong nhà, và nếu được người phù hộ thì sẽ làm ăn khấm khá, mạnh khỏe.

 


Thổ công (còn gọi là ông Thổ hay ông Địa) có thể là vô hình, nên thờ cúng ngài chỉ cần đặt bát hương riêng của ngài lên .bàn thờ, ngoài những ngày kỵ, giỗ chạp, thì ngày Sóc ngày Vọng, hàng tháng đều có thắp hương, cúng hoa quả cho ngài. Ở nhiều nơi, nhất là thành thị, ông Địa được hình tượng họá dưới hình dạng một ộng già to béo bụng phệ, vẻ mặt hiền lành, miệng cười thoải mái. Khi có tượng ông Địa, có thể đặt ở bàn thờ hay một nơi nào đó trong nhà, thuận tiện cho việc hương khói thường ngày.

Bàn thờ thổ công

tham khảo thêm: dịch vụ chăm sóc phần mộ lạc hồng viên

https://lachongvien.hatenablog.com/entry/nghia-trang-lac-hong-vien

f:id:lachongvien:20190822045015j:plain

Đã thờ phụng, phải có bàn thờ. Nhà nào đã tin theo Thần đạo đều có bàn thờ Thổ Công. Nhiều người thuộc ngành thứ, không có bổn phận cúng giỗ, trong nhà không cổ bàn thờ tổ tiên, cũng thiết lập một bàn thờ Thổ Công.

ban-tho-tho-gia-tien-va-tho-cong
Bàn thờ thổ công được đặt bên trái bàn thờ gia tiên

Bàn thờ Thổ Công thường đặt ngay ở gian bên, cạnh bàn thờ tổ tiên. Tại những gia đình không có bàn thờ tổ tiên, bàn thờ Thổ Công được đặt ở gian chính giữa nhà.
Bàn thờ Thổ Công giản dị hơn bàn thờ tổ tiên, và gồm một chiếc hương án kê liền với hậu tường gian nhà.
Trên hương án có chiếc mâm nhỏ, giống chiếc bàn đặt trên hương án bàn thờ gia tiên, và ở trên cũng có ba đài rượu với nắp đậy như trên bàn thờ gia tiên vậy.
Đằng sau chiếc bàn nhỏ này, kê cao hơn lên là bài vị Thổ Công, hoặc có khi được thay bằng một cỗ mũ gồm ba chiếc, mũ đàn bà đặt ở giữa và hai bên hai chiếc mũ đàn ông. Cũng có nhà chỉ thờ một chiếc mũ.
Đằng trước bàn nhỏ là bình hương hoặc đỉnh trầm. Hai bên bình hương hoặc đỉnh trầm là đôi nến, đôi ống hương.
Ở những gia đình túng thiếu, bàn thờ Thổ Công lại càng giản dị hơn. Có khi chỉ !à một chiếc bàn, trên bàn có một bình hương và một cái mũ đặt ngay sau bình hương.
Dù bàn thờ có giản di thế nào cũng vẫn là một bàn thờ đủ biểu lộ sự thành kính của gia chủ đối với vị thần săn sóc gia cư mình.

Định phúc Táo quân

tham khảo thêm: cho thuê xe tang lễ lạc hồng viên

https://lachongvien.hatenablog.com/entry/nghia-trang-lac-hong-vien

f:id:lachongvien:20190822044918j:plain

Tức là ông vua Táo định phúc đức cho gia đình. Phúc đức này do sự ăn ở phải đạo hay trái đạo của người nhà. Táo quân thường được tôn là Đệ nhất gia chi chủ, chính vì vậy mà mỗi khi muốn cúng lễ đều phải cúng Táo quân trước và xin phép ngài để những vị được cúng lễ có thể tới phối hưởng. Hai bên bài vị bao giờ cũng có một đôi câu đối:

Hữu đức năng ty hỏa

Vô tư khả dạt thiên

(Có đức trông coi việc lửa; Vô tư có thể lên trời).

 

 

Tục tin rằng, ngày 23 tháng Chạp Táo quân lên chầu trời, tâu bày mọi việc xấu tốt của trần gian.
Theo người Việt, Táo quân nghĩa đen là vua Bếp, có ba ngôi – ba vị thần linh, mà trong tích cũ kể rõ rằng: Ngày xưa có hai vợ chồng nhà kia là Thi Nhi và Trọng Cao, lấy nhau đã lâu không có con, buồn phiền thường cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá đánh vợ. Bực mình, Thị Nhi bỏ nhà ra đi, gặp một chàng trai là Phạm Lang. Phạm Lang đem lời quyến rũ nên được cùng Thị Nhi ăn ở thành vợ thành chồng. Khi hết giận, Trọng Cao đi khắp nơi tìm và để xin lỗi. Mãi không thấy, hết tiền, Trọng Cao phải hành khất lần hồi. Một hôm, nhà Phạm Lang cúng đốt mã ngoài sân, có một hành khất vào ăn xin. Thị Nhi nhận ra chồng cũ, động lòng thương đem tiền gạo ra cho bị Phạm Lang nghi ngờ, Thị Nhi lấy làm xấu hổ đâm đầu vào đống lửa mà tự tử. Trọng Cao cảm tình ân nghĩa cũng đâm đầu vào lửa chết theo Phạm Lang thương vợ cũng nhảy vào đống lửa nốt. Trời thấy cả ba người đều có nghĩa mới phong cho làm Táo quân, nhưng mỗi người giữ mỗi việc. Phạm Lang là Thổ công trông nom việc trong bếp, Trọng Cao là Thổ địa trông nom việc trong nhà, Thị Nhi là Thổ kỳ trông nom việc chợ búa hoặc việc sinh sản màu vật ở vườn đất.

Bài vị Thổ công

tham khảo thêm:  tư vấn thiết kế khuôn mộ lạc hồng viên

https://lachongvien.hatenablog.com/entry/nghia-trang-lac-hong-vien

f:id:lachongvien:20190822044650j:plain

Tại bàn thờ Thổ công, không phải người ta chỉ thờ một vị thần, mà ở đây là ba vị thần với ba danh hiệu khác nhau: Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ.

Minh họa: Bài vị đặt trên ban thờ gia chủ
Minh họa: Bài vị đặt trên ban thờ gia chủ

 

Bài vị của ba vị thần được lập chung và đề như sau:
Bản gia Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân
Bản gia Thổ địa Long mạch tôn thần
Bản gia Ngũ phương ngũ thổ Phúc đức chính thần.
Chữ “Bản gia” đặt lên trên vì mỗi nhà có riêng một Thổ công, và vị Thổ công của mỗi nhà đều được thay thế hàng năm vào ngày 23 tháng Chạp, tức ngày lễ Táo quân. Nhân dịp này, người ta sửa lễ cúng ông Công, rồi đốt bài vị cũ để thay bài vị mới.

Tết ông Công

tham khảo thêm: dịch vụ cầu siêu lạc hồng viên

https://lachongvien.hatenablog.com/entry/nghia-trang-lac-hong-vien

f:id:lachongvien:20190822044558j:plain

Lễ cúng Thổ công quan trọng nhất trong năm là Tết ông Công vào ngày 23 tháng Chạp.

Theo tín ngưỡng cổ truyền, vào ngày này, Thổ công lên chầu Ngọc hoàng để báo cáo về những việc tai nghe mắt thấy ở trần gian. Nhiệm vụ của Thổ công là ghi chép tất cả mọi việc tốt xấu xảy ra trong gia đình một cách khách quan.
Sau khi cúng ông Công (23 tháng Chạp), người ta hóa vàng, đồng thời hóa cả cổ mũ năm trước. Lại mua tặng ông Công một con cá chép (ngựa của ông Công), được phóng sinh ra sông hoặc hồ ao sau lễ cúng. Con cá sẽ hóa rồng đưa ông Công lên chầu trời.
Ngày xưa người Trung Hoa thường có tục hối lộ ông Công bằng cách khi hóa vàng đốt thêm gói kẹo để ông lên Trời tâu toàn những lời dịu ngọt, che bớt tội lỗi đi cho

Thần tài là ai? Tín ngưỡng phong tục thờ thần Tài có từ bao giờ?

tham khảo thêm: dịch vụ cầu an lạc hồng viên

https://lachongvien.hatenablog.com/entry/nghia-trang-lac-hong-vien

f:id:lachongvien:20190822044451j:plain

Thần Tài là một vị thần chủ về tài lộc trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam và ở một số nước phương Đông khác như Trung Quốc, Thái Lan,… Người ta tin rằng thần Tài sẽ mang tài lộc, may mắn đến cho gia đình, nhất là đối với những người làm ăn kinh doanh hay buôn bán. Cho nên khi bước vào bất cứ cửa hàng, quán xá nào bạn cũng sẽ dễ dàng bắt gặp 1 bàn thờ thần tài ở góc nhà.

Nguồn gốc của tục thờ Thần Tài

Tục thờ Thần tài có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó truyền sang Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ 20. Xoay quanh vị thần này có rất nhiều câu chuyện truyền miệng trong dân gian và cả truyền thuyết kể về nguồn gốc của phong tục này.

Thần tài Trung Quốc

Truyền thuyết cổ xưa nhất về thần tài có 3 vị: một vị là quan văn tên là Tỷ Can, một vị là quan võ tên là Triệu Công Minh và một nhân vật lịch sử có thật tên là Phạm Lãi.

Văn thần Tỷ Can

Ông là một nhân vật lịch sử nổi tiếng thời nhà Thương, là con của vua Thái Đinh và là chú ruột của Trụ Vương – vị vua cuối cùng của thời nhà Thương (1600-1027 trước công nguyên) và cũng là vị hôn quân tàn ác nhất lịch sử Trung Quốc.

Tỷ Can là một người tài đức, nhiều lần hết lời căn ngăn vua Trụ làm những việc ác, nhưng không những vua Trụ không nghe mà còn đòi moi tim Bỉ Can ra xem vì vua nghe nói là tim người hiền có bẩy lỗ. Tỷ Can tự tay móc tim cho vua Trụ xem, nhưng ông không chết vì đã uống thuốc trường sinh bất tử. Ông chán nản bỏ đi, mang tài sản ra phân phát cho nhân dân. Vì thế nhân dân tôn ông làm thần tài, đời đời khói hương thờ phụng.

 

Trong tiểu thuyết Phong Thần Diễn Nghĩa, Tỷ Can nhiều lần đối đầu với Đát Kỷ và bị Trụ Vương yêu cầu móc tim để trị bệnh cho Đát Kỷ.

Võ thần Triệu Công Minh

Trong truyền thuyết thì Triệu Công Minh là người đời nhà Tần. Ông lánh đời đi tu tại núi Chung Nam, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Về sau đắc đạo, ông được phong làm Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên Soái, coi việc đuổi trừ ôn dịch, cứu bệnh trừ tà. Hơn nữa, ai bị oan ức đến cầu cứu ông thì được giúp đỡ. Người buôn bán thì cầu ông để làm ăn được phát đạt, may mắn.

Người đời thường vẽ hình ông là một người mặt đen, râu rậm, tay cầm kiếm Thần hoặc cầm Roi cưỡi cọp đen. Dân gian còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hay Triệu Công Nguyên Soái.

Thần tài Triệu Công Minh
Thần tài Triệu Công Minh

Trong tiểu thuyết Phong Thần Diễn Nghĩa thì Khương Tử Nha phong cho Triệu Công Minh là Kim Long Như Ý Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn Chân Quân, là Nguyên Soái thống lãnh bốn vị tiên:

  • Chiêu Bảo Thiên Tôn Tiêu Thăng
  • Nạp Trân Thiên Tôn Tấn Bảo
  • Chiêu Tài Sứ Giả Đặng Cửu Công
  • Lợi Thị Tiên Quan Diêu Thiểu Tư

Những vị này luôn ban phước lộc và may mắn cho những người thương gia, kinh doanh buôn bán. Danh hiệu của bốn vị đem lại những điều tốt lành cho mọi người: Chiêu bảo (gọi vật quý), Nạp trân (thu vật báu), Chiêu tài (gọi tiền về), Lợi thị (buôn bán có lời). Từ đó, dân gian tôn bốn vị tiên này cộng thêm thần thủ lãnh Triệu Công Minh là năm người, và gọi là Ngũ Lộ Tài Thần.

Đến đời nhà Minh, tác giả Hứa Trọng Lâm có viết quyển sách, trong đó chính thức nêu lên Triệu Công Minh là Tài Thần giúp chiêu tài tấn bảo, giúp người thương gia buôn bán phát đạt, giàu có, được nhiều tài lộc.

Trong các vị thần tiên của Đạo giáo, Triệu Công Minh là âm thần, là một trong năm vị đại ôn thần, có khả năng điều khiển sấm chớp hô mưa gọi gió, tiêu tai trừ bệnh và chiêu tài tiến bảo.

Chính bởi công đức to lớn của mình, Tài thần Triệu Công Minh từ xưa là thần tài chủ quản vàng bạc tiền tài, ban phúc lành và là một vị thần chân chính, được thờ cúng rộng rãi trong dân gian cho đến nay.

Thần tài Phạm Lãi

Cũng theo truyền thuyết Trung Hoa cổ đại thì một nhân vật lịch sử có thật tên là Phạm Lãi cũng được coi là Tài thần. Ông là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn, đã hết lòng phò tá vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn.

Sau khi đã toại chí, Phạm Lãi không màng công danh phú quý mà bỏ đi ở ẩn. Dã sử kể rằng Phạm Lãi đưa gia quyến đến đất Đào, đổi tên thành Đào Chu Công. Từ đó người ta chỉ biết ông tên là Đào Chu Công, làm nghề buôn bán. Ông buôn bán mấy năm thì phát tài, tiền của rất nhiều, trở thành một thương gia giàu có lúc bấy giờ. Nhưng ông không tích của, mang toàn bộ tiền của đi bố thí cho những người nghèo khó, chỉ giữ lại một chút cho bản thân. Sau đó ông lại chăm chỉ làm việc, một thời gian sau lại phát tài nữa, phát tài càng lớn lại bố thí càng nhiều, danh tiếng vì thế càng ngày vang xa.

Chính nhờ đức hạnh bố thí của ông mà người đời tôn sùng ông là một vị thần mang đến tài lộc cho mọi người, gọi ông là Thần Tài. Sau khi ông mất, những người làm ăn, buôn bán bắt đầu lập bàn thờ Thần Tài. Trong dịp khai trương các cửa hàng, quán xá, cơ sở kinh doanh,… người Trung Quốc và người gốc Hoa thường hay tặng nhau tấm đại tự “Đào Công phất nghiệp” để chúc nhau việc kinh doanh, buôn bán thành đạt.

Thần tài Việt Nam

Tại Việt Nam tục thờ thần Tài xuất phát từ một bộ phận nhỏ người Việt gốc Hoa kinh doanh tại Sài Gòn vào đầu thế kỷ 20. Sau đó lan truyền ra cả nước với tốc độ rất nhanh. Dân gian lưu truyền câu truyện sau:

Chuyện kể rằng Thần Tài chỉ có trên trời, dưới trần gian không có. Ngài là vị thần cai quản tiền bạc, tài lộc trên thiên đình. Trong một lần đi chơi uống rượu, do say quá nên Thần Tài bị rơi xuống trần gian, không may đầu bị va vào đá nên nằm mê mệt không biết gì. Sáng ra mọi người thấy một người ăn mặc giống như diễn tuồng cải lương thì lấy làm lạ và tưởng ngài bị điên.

Mọi người thấy vậy liền lột sạch hết quần áo mũ nón của Thần Tài và đem đi bán. Khi ngài tỉnh dậy không có quần áo trên người và do bị va đầu vào đá nên bị mất đi trí nhớ không biết mình là ai.

Do sống trên thiên đình quen rồi nên Thần Tài không biết làm việc dưới trần gian và phải lang thang đi xin ăn khắp nơi. Thần Tài đến một nhà kia kinh doanh buôn bán gà, vịt, heo quay ế ẩm thì được chủ quán mời vào ăn. Điều kỳ lạ lúc này là kể từ khi Thần Tài vào quán ăn thì không biết từ đâu khách cứ kéo đến nườm nượp. Người chủ quán thấy thế nên ngày nào cũng mời Thần Tài vào ăn.

Khách hàng ở quán đối diện trước đây rất đông bỗng dưng từ hôm thần Tài đến ăn quán bên kia thì khách lại chuyển hết qua quán bên này. Sau một thời gian người bán hàng đắt khách và cảm thấy Thần Tài chẳng làm gì mà suốt ngày lại được ăn uống đồ ăn ngon, lại toàn dùng tay ăn bốc, người thì bốc mùi, lại hay thích lang thang không tắm giặt.

Nghĩ Thần Tài sẽ làm khách sợ không dám đến ăn nữa và lại thấy hao phí đồ ăn cho một người ăn mày không đáng nên người chủ quán liền đuổi ông đi. Quán đối diện ngày xưa rất đông khách nay vắng hoe, thấy Thần Tài bị chủ quán bên kia đuổi thì liền mời Thần Tài vào ăn, cũng như lúc trước, mọi người lại ùn ùn kéo đến ăn quán này rất đông.

Mọi người thấy vậy nên ai cũng ra sức tranh giành mời cho bằng được Thần Tài đến hàng quán của mình ăn để có thể kéo khách đến ăn đông, vậy nên mới có câu “Thần Tài gõ cửa”.

Người dân ở đó thấy Thần Tài không có quần áo mặc nên dẫn ông đi mua lại quần áo, được mọi người dẫn đến cửa hàng nơi quần áo ông bị bán. Sau khi mặc lại quần áo mũ nón vào thì Thần Tài bỗng nhớ lại mọi chuyện trước kia và bay về trời.

Mọi người coi Thần Tài như là báu vật và họ lập bàn thờ ông từ đó. Hóa thân Thần Tài là một người lang thang ăn xin quần áo rách rưới. Ngày Thần Tài bay về trời cũng chính là ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch.

Lý do ban thờ thần tài đặt ở góc nhà

Sở dĩ người ta thờ Thần Tài ở góc nhà là do điển tích: Xưa kia có một lái buôn tên là Âu Minh, khi đi qua hồ Thanh Thảo, được Thủy thần tặng cho một nô tỳ tên là Như Nguyện. Âu Minh đưa Như Nguyện về nuôi, trong nhà làm ăn phát đạt, chỉ vài năm đã giàu to. Về sau có lần Âu Minh đánh Như Nguyện. Sợ hãi nên Như Nguyện chui vào đống rác rồi biến mất. Từ đó, Âu Minh làm ăn sa sút dần, chẳng mấy lúc nghèo kiết xác.

Người ta bảo Như Nguyện là hóa thân của Thần Tài và lập bàn thờ Như Nguyện. Cũng chính vì thế mà bàn thờ Thần Tài thường nằm ở một góc khuất trong nhà hoặc hàng hiên. Và bàn thờ cũng không cần to tát, chỉ là một cái khám nhỏ sơn son thếp vàng, có khi chỉ là một thùng gỗ dán giấy đỏ. Cũng theo điển tích này, trong 3 ngày Tết có tục kiêng quét nhà, hốt rác vì sợ làm mất Thần Tài ẩn trong đống rác.

Tại sao Thần Tài được thờ chung với Ông Địa?

Người Hoa là cộng đồng được coi là sở trường về doanh thương nên tập tục thờ thần Tài đã trở nên quan yếu và phổ biến có phần lâu đời trong lịch sử tín ngưỡng. Ngược lại, người Việt là cư dân “dĩ nông vi bản” nên bảo thủ tập tục thờ thần Đất và tín lý phồn thực. Đến cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, thần Đất và thần Tài ở xứ ta vẫn chưa phân biệt biệt rõ.

Ban thờ Thần Tài
Người Việt thường lập ban thờ Thần Tài chung với Ông Địa (Thổ Địa)

Trong Đại Nam quốc âm tự vị (Sài Gòn, 1895), tác giả Huỳnh Tịnh Của cắt nghĩa Thổ thần và Tài thần đều là “thần Đất, thần giữ tiền bạc” và đến tận bây giờ, thần Tài và Thổ Địa vẫn cứ được thờ chung như một cặp đôi bất khả phân li ở khắp nơi, từ văn phòng công ty, tiệm quán, tư gia… thậm chí ở trên nóc tủ bán thuốc lá lẻ lề đường. Và điều đáng chú ý là, hình tượng vị thần Tài của người Việt, xét về mặt đồ tượng học, là một biến thể của Thổ Địa Phước đức chính thần của người Hoa. Đây là bằng chứng chỉ ra một cách thức ảnh hưởng tín ngưỡng Hoa đối với người Việt.

Trong thực tế đối với người Hoa, Thổ Địa cũng là một trong các thần Tài. Nói cách khác, cũng do nông nghiệp chiếm vai trò quan trọng trong lịch sử nên đất đai cùng các loại nông phẩm từ đất sinh ra là thứ của cải, tài sản chủ yếu nên thần Đất cũng là thần Tài. Mặt khác, thần Đất có công năng là thần Tài là do thuyết ngũ hành tương sinh: Thổ sinh Kim.

Thần tài dưới góc nhìn Phật giáo

Như đã nói ở trên, Thần Tài có nguồn gốc từ Đạo giáo chứ không phải Đạo Phật nên vị thần này không phải là nhân vật có mặt trong Phật giáo. Tuy nhiên đức hạnh của ông tương ứng với lời dạy của Đức Phật, đó là hạnh bố thí mà mỗi chúng ta cần học hỏi.

Hầu hết mục đích thờ cúng Thần Tài chính là người ta muốn cầu tài lộc bằng cách cúng kiến trái cây, thức ăn. Đó là quan điểm dân gian và nếu so với quan điểm Phật giáo thì không phù hợp, vì nó trái với quy luật nhân quả mà Đức Phật đã dạy.

Đạo Phật không dạy chúng ta cầu giàu sang bằng cách cung phụng cho một vị thần linh nào đó mà Đức Phật đề cao hạnh bố thí, giúp người sẽ được phước báu tương ứng. Cho nên bố thí và cúng dường là nhân lành để kết hoa trái ngọt phước báo giàu sang phú quý trong hiện tại và mai sau.

Chúng ta học được gì từ thần tài?

Dù có nhiều truyền thuyết khác nhau nhưng tựu trung các vị thần tài đều là những nhân cách lớn: không màng vinh hoa phú quý mà sẵn sàng từ bỏ, đem năng lực và tài sản của bản thân đi bố thí với tâm từ bi không mưu cầu tư lợi. Đây là điều chúng ta cần phải học.

Hạnh bố thí phải xuất phát từ tâm từ bi

Ngày nay, nhiều người hành theo hạnh bố thí đa phần vì mong cầu lợi lạc hoặc để người khác nhớ ơn, báo đáp. Điều đó không sai nhưng phước báu sẽ tạo ra không nhiều vì hành thiện có tính toán và bị giới hạn. Chúng ta dễ vướng mắt khi dang tay giúp đỡ người khác vì cho rằng: Mình sẽ được gì? Liệu họ có trả ơn mình không? Đừng nên như vậy! Vì Đức Phật dạy: Thi ân không cần báo đáp.

Luật nhân quả luôn tồn tại một cách công bằng nên khi tạo tác nhân thiện, chắc chắn quả thiện sẽ đến khi đủ duyên mà chẳng cần phải mong cầu. Đó là vì sao khi Phạm Lãi làm ăn khắm khá để bố thí mãi là như thế. Vì thế, chúng ta thờ thần Tài, nếu hiểu đúng nghĩa là cần phải noi gương hạnh lành của ông. Biết san sẻ, bố thí, giúp đỡ người thì việc làm ăn sẽ thuận lợi, tiền bạc không bị thiếu hụt.

Không ỷ lại và siêng năng làm việc

Dù công việc làm ăn thuận lợi, của tiền dư giả nhưng Phạm Lãi vẫn không dựa vào đó mà lười biếng lao động để hưởng thụ. Cách mà ông “hưởng thụ” thành quả của mình chính là phân phát tiền của cho người nghèo. Rồi lại tiếp tục lao động để có tiền mà bố thí. Ông không hề mong cầu một đấng thần linh nào ban phước, ban tài cho ông mà ông tạo mọi của cải bằng chính đôi tay của mình.

Còn chúng ta thì đang làm ngược lại. Luôn giao phó vận mệnh tài lộc của mình ở một vị thần để van vái, cầu mong mà không tự mình làm chủ lấy mình. Để rồi khi không được như ý thì quay sang trách tại sao Thần Tài không linh thiêng.

Đặc biệt, điều chúng ta học ở ông chính là tính siêng năng. Trong khi đó người đời ngày nay luôn ỷ lại gia đình khá giả mà không chăm lo cho tương lai mà ì ạch, biếng lười, vun tiền vào những chốn ăn chơi sa đọa.

Qua bài chia sẻ nguồn gốc ông Thần Tài và đức hạnh bố thí, chúng ta nên ngẫm nghĩ lại những bài học quý giá từ đức tính của ông Thần Tài noi gương và làm theo nếu muốn thật sự có tiền tài và giữ chúng được lâu hơn.

Cúng Thần Tài

tham khảo thêm: dịch vụ cúng giỗ online lạc hồng viên

https://lachongvien.hatenablog.com/entry/nghia-trang-lac-hong-vien

f:id:lachongvien:20190822044340j:plain

Nếu người ta chỉ cúng Táo quân trong những ngày sóc vọng, trong những dịp giỗ tết, trái lại người Việt Nam cúng Thần Tài quanh năm.

Người ta thường lập bàn thờ chung ông Địa và Thần Tài
Người ta thường lập bàn thờ chung ông Địa và Thần Tài

Trong những ngày sóc vọng giỗ Tết, lễ cúng Thần Tài cũng như cúng Táo Quân trong những dịp đó, nghĩa là có khi cúng mặn và có khi là cả một mâm cỗ. Trong những ngày thường, lễ cúng Thần Tài rất đơn giản, chỉ có trầu nước và đôi khi có một đĩa trái cây.
Mỗi buổi chiều, lúc chuông chiêu mộ, bàn thờ Thần Tài được thắp hương lên, có khi gia chủ khấn vái, có khi chỉ khấn thủ trước bàn thờ.
Chỉ trong những ngày sóc vọng, giỗ Tết, sự khấn vái của gia chủ mới cần thiết.
Những người làm ăn buôn bán rất tin tưởng ở Thần Tài. Mỗi dịp xuất vốn, người ta đều cầu xin làm lễ Thần Tài.

 
 
 

Tiên sư – Thánh sư – Nghệ sư

tham khảo thêm: dịch vụ hậu cần tang lễ lạc hồng viên

https://lachongvien.hatenablog.com/entry/nghia-trang-lac-hong-vien

f:id:lachongvien:20190822044153j:plain

Thánh sư (Tiên sư hay Nghệ sư) tức là ông Tổ một nghề, người đã truyền dạy nghề đó cho đời sau. Các vị Thánh sư rất được tôn trọng. Ở nhiều nơi, những người cùng làm một nghề, cùng buôn một thứ hợp nhau thành phường, có miếu thờ Thánh sư riêng ngày giỗ của Thánh sư gọi là giỗ phường, cúng giỗ tại miếu và mọi người trong phường cùng tới lễ. Các thành viên trong phường phải cùng nhau góp tiền để cúng giỗ. Những phường to thường có tài sản riêng, có ruộng vườn để lấy hoa lợi dùng trong việc thờ tự Thánh sư. Giỗ phường có khi được làm rất to, có tổ chức các trò vui như một ngày hội: múa rối, hát chèo, đánh đu, đánh cờ…

Cúng Thánh sư

Vào những ngày sóc vọng, tuần tiết, giỗ tết, trong khi cúng gia tiên và Thổ công, gia chủ cũng cúng Thánh sư với đồ lễ tương tự như đồ lễ cúng Thổ công nhưng lễ cúng Thánh sư quan trọng nhất trong năm nhằm vào ngày kỵ nhật của Thánh sư.
Những người hành nghề, mỗi khi gặp việc trắc trổ, đều làm lễ kêu khấn Thánh sư để được phù hộ gặp sự may mắn.

 

Đại Vương Hành Khiển

tham khảo thêm: dịch vụ tư vấn ma chay tại nhà lạc hồng viên

https://lachongvien.hatenablog.com/entry/nghia-trang-lac-hong-vien

f:id:lachongvien:20190822044009j:plain

Theo quan niệm và tín ngưỡng dân gian, dân ta tin rằng, ngoài các vị thần hữu danh và vô danh, có các vị thần thời gian nữa, gọi là Đại vương hành khẩn.

Thập nhị chi
Thập nhị chi

Có tất cả 12 vị, ứng với thập nhị chi. Mỗi vị có trách nhiệm trông coi nhân gian một năm. Có ý kiến cho là ngày các vị cũ ra đi và các vị mới xuống nhân gian trùng với ngày ông Táo lên trời (23/12) và trở về mặt đất (30/12). Mỗi vị hành khiển đều có một phán quan giúp việc. Đại vương hành khiển lo thi hành mệnh lệnh của Ngọc Hoàng và trình lên ngài những việc đã xảy ra. Vị phán quan lo ghi chép công tội của mọi người, mọi nhà. Tính cách các vị hành khiển cũng khác nhau: hoặc nhân đức, hoặc khắc nghiệt.
1. Năm Tý – Chu vương hành khiển, Thiên ôn hành binh chi thần. Lý tào phán quan.
2. Năm Sửu – Triệu vương hành khiển, Tam thập lục phương hành binh chi thần Khúc tào phán. quan.
3. Năm Dần – Ngụy vương hành khiển, Mộc tinh chi thần. Tiêu tào phán quan.
4. Năm Mão – Trịnh vương hành khiển, Thạch tinh chi thần. Kiễu tào phán quan.
5. Năm Thìn – Sở vương hành khiển, Hỏa tinh chi thần. Biểu tào phán quan.
6. Năm Tỵ – Ngô vương hành khiển, Thiên hải chi thần. Hứa tào phán quan.
7. Năm Ngọ – Tân vương hành khiển, Thiên Hạo chi thần. Nhân tào phán quan.
8. Năm Mùi – Tống vương hành khiển, Ngũ đạo chi thần. Lâm tào phán quan.
9. Nàm Thân – Tề Vương hành khiển, Ngũ miếu chi thần. Tống tào phán quan.
10. Năm Dậu – Lỗ vương hành khiển, Ngũ nhạc chi thần. Cự tào phán quan.
11. Năm Tuất – Việt vương hành khiển, Thiên bá chi thần. Thành tào phán quan.
12. Năm Hợi- Lưu vương hành khiển, Ngũ ôn chi thần. Nguyên tào phán quan.